THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM
CHÚA KITÔ, ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN LOẠI, GIÁNG SINH BỞI ĐỨC TRINH MẪU MARIA TẠI BETHLEHEM, XỨ JUDEA Cung điện, được Vua Tối Cao trên hết các vua và Chúa trên hết các chúa chọn để đón mừng Con hằng hữu nhập thể, là một túp lều hoặc hang đá nghèo nàn hèn hạ. Đức Hiền Mẫu Maria và thánh Giuse tới hang đá này sau khi đã bị loài người từ chối mọi tiếp nhận cho tạm trú với lòng hảo tâm tối thiểu. Hang đá này hèn hạ đến độ khắp Bethlehem có vô số khách lạ thiếu chỗ trọ, nhưng không một ai tự hạ tới mức dùng làm chỗ trú đêm. Không một ai cho rằng nơi này thích hợp hoặc đáng dùng làm nơi tạm trú, ngoại trừ các Bậc Thầy đức khiêm tốn khó nghèo là Chúa Cứu Thế, Thánh Mẫu cực trinh khiết và thánh Dưỡng Phụ Giuse. Thiên Chúa Cha hằng hữu đã dành hang chiên bò này cho Chúa Cứu Thế và Đức Hiền Mẫu, thánh hoá nơi đó bằng sự trống không trơ trụi hoang vắng nghèo hèn để làm đền thờ thứ nhất của Ánh Sáng (Malaki 4:2, Tv 111:4), là cung điện cho Mặt Trời công chính đích thực, Mặt Trời từ nơi Bầu Trời Hừng Đông Maria mọc lên cho những tâm hồn ngay chính, biến đêm tội lỗi thành ngày ân sủng. Khi bước vào nơi tạm trú được dành sẵn, do ánh sáng rực rỡ của muôn ngàn thiên thần hộ vệ, Đức Maria và thánh Giuse dễ dàng nhận thấy sự nghèo nàn quạnh hiu của hang đá, nhưng các ngài coi trọng như đặc ân, chào đón bằng những giọt lệ vui mừng an ủi. Không chần chờ, hai Vị Lữ Khách thánh thiện quì gối chúc tụng, cảm tạ Thiên Chúa vì ân huệ mà các ngài biết đã được dành cho mình do thánh ý khôn ngoan nhiệm mầu. Công Chúa Maria hiểu thấu đáo mầu nhiệm này hơn vì ngay khi thánh hóa phía trong hang bằng những bước chân, Người cảm thấy chan hòa vui mừng phấn khởi. Đức Maria xin Thiên Chúa chúc lành dồi dào cho mọi cư dân trong thành, vì từ chối không tiếp nhận Người, họ đã dành cho Người cơ hội hưởng những ân huệ vĩ đại được chờ đợi tại hang đá hoang vu này. Hang này toàn bằng đá sần sùi, một nơi chỉ dành làm chỗ trú cho súc vật; vậy mà Thiên Chúa Cha hằng hữu đã chọn làm nơi Con Một Ngài giáng sinh. Các thiên thần hợp thành những đạo quân như các đoàn vệ sĩ bảo vệ Đức Nữ Vương. Các thiên thần cũng hiện rõ với thánh Giuse vì dịp này ngài xứng đáng được hưởng đặc ân đó. Một mặt, để làm dịu bớt nỗi đau buồn của ngài bằng cách để cho ngài thấy chỗ trú nghèo nàn này được trang hoàng bằng sự hiện diện của các thiên thần. Mặt khác, để tưởng lệ, chuẩn bị tinh thần thánh Giuse đón tiếp những biến cố vĩ đại vô cùng Thiên Chúa an bài xảy ra trong đêm nay tại hang đá trống vắng này. Đức Maria, được thông báo đầy đủ về mầu nhiệm xảy ra tại đây, đã khởi sự bằng chính tay Người dọn dẹp hang đá, mà chẳng mấy chốc nữa sẽ được dùng làm ngai tòa, là đền thờ Thiên Chúa. Đức Hiền Mẫu Maria không muốn lỡ dịp này thi hành đức khiêm nhượng, Mẹ cũng không muốn để Con Một vô cùng yêu dấu Mẹ không được thờ lạy tôn thờ ám chỉ trong việc chuẩn bị này là dọn dẹp đền thờ Chúa. Thánh Giuse, ý thức địa vị cao cả của Đức Maria (đối với ngài thì dường như Người quên mất địa vị cao cả của mình trong việc nồng nàn ước ao được khiêm nhượng), đã nài nỉ Đức Maria đừng tước đoạt việc này, mà ngài coi là được dành riêng cho mình. Thánh Giuse mau mắn khởi sự lau chùi nền và các góc hang. Đức Maria khiêm nhượng tiếp tục phụ giúp ngài. Theo cách chúng ta nói, các thiên thần bối rối trước sự sốt sắng thi hành đức khiêm tốn của Đức Maria, nên đã mau mắn phụ giúp dọn dẹp hang đá. Chỉ trong nháy mắt các thiên thần đã lau chùi dọn dẹp hang đá gọn gàng và tỏa hương thơm thiên đàng ngào ngạt. Bằng những vật liệu đem theo, thánh Giuse nhóm lửa. Trời rất lạnh, Mẹ Maria và thánh Giuse ngồi sưởi bên đống lửa. Các ngài chia sẻ thực phẩm đem theo, dùng bữa tối thanh đạm với niềm hân hoan vô biên. Mẹ Maria hết sức ngây ngất khi nghĩ tới mầu nhiệm Chúa Cứu Thế Giáng Sinh sắp xảy ra, nên không muốn dùng thực phẩm nếu không bị thúc giục bởi đức vâng lời đối với thánh phu quân Giuse. Bữa tối xong, Đức Maria và thánh Giuse tạ ơn Chúa như thường lệ. Sau khi cầu nguyện và chuyện vãn về các mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể một lát, Đức Trinh Mẫu cảm thấy gần tới giờ Chúa Cứu Thế giáng sinh, Người yêu cầu thánh Giuse đi nghỉ vì đêm đã khuya. Trước khi lui về nghỉ, với mền chiếu đem theo, thánh Giuse sửa soạn máng cỏ thành một thứ giường. Để Đức Maria ở phần hang được chuẩn bị như thế, thánh Giuse lui ra một góc ở gần cửa hang, ở đây ngài bắt đầu cầu nguyện. Lập tức thánh Giuse được Thần Linh Thiên Chúa viếng thăm, cảm thấy hết sức ngọt ngào khác thường, được bao bọc trong Thiên Chúa và được nâng lên ngất trí (= xuất thần). Trong khi ngất trí, thánh Giuse thấy tất cả mọi việc xảy ra trong đêm nay tại hang đá diễm phúc này cho tới khi Đức Hiền Mẫu Maria gọi, ngài mới tỉnh lại. Đức Nữ Vương muôn loài, từ nơi đang nghỉ, được Thiên Chúa lớn tiếng gọi. Tiếng gọi đó đã mạnh mẽ mà dịu dàng nâng Người lên trên mọi thụ tạo và cảm thấy những ảnh hưởng mới của quyền năng Thiên Chúa. Đây là một trong những lần ngất trí lạ lùng nhất Mẹ được hưởng. Đức Maria lập tức được tràn đầy ơn soi sáng và ảnh hưởng siêu nhiên đặc biệt, cho tới khi nhìn rõ Thiên Chúa. Tấm màn rơi xuống và Đức Maria nhìn trực diện chính Thiên Chúa trong ánh sáng huy hoàng. Người được ơn khôn ngoan, mà mọi khả năng của cả loài người và các thiên thần không thể hiểu thấu đáo hoặc diễn tả đầy đủ. Tất cả sự hiểu biết về thiên tính và nhân tính của Con cực thánh, Đức Maria đã từng nhận được trong các thị kiến trước, đều được canh tân; hơn nữa các mầu nhiệm khác về mọi điều tích chứa vô tận trong lòng Thiên Chúa đều được tiết lộ cho Mẹ. Chúng tôi không có ngôn từ thích hợp đủ để diễn tả những gì được phép nhìn thấy trong các mầu nhiệm này nhờ ánh sáng siêu nhiên; sự phong phú và quá nhiều của các mầu nhiệm đó làm cho chúng tôi phải nhìn nhận mình nghèo nàn, thiếu khả năng diễn tả. Đấng Tối Cao thông báo cho Đức Trinh Mẫu thời gian Chúa đến trong thế gian đã tới và cách thức việc này bây giờ phải được hoàn thành. Đức Trinh Mẫu nhìn thấy trong thị kiến này mục đích cùng giá trị cao cả vô cùng các mầu nhiệm lạ lùng liên quan đến chính Chúa Cứu Thế và toàn thể nhân loại, vì họ mà các mầu nhiệm này đã được ấn định từ thuở đời đời. Đức Maria sấp mình trước thánh nhan Thiên Chúa, chúc tụng tôn vinh, tạ ân, ca ngợi Chúa cho chính Người và thay cho mọi thụ tạo. Đồng thời Đức Maria xin Thiên Chúa ban ánh sáng và ân sủng mới để có thể xứng đáng đảm đương việc phục vụ, thờ lạy, nuôi dưỡng Ngôi Lời Nhập Thể, mà Người sẽ ẵm bồng, chăm sóc, nuôi dưỡng bằng sữa trinh khiết. Vì hiểu rõ tính chất cao cả của mầu nhiệm này, Đức Hiền Mẫu thiên đàng dâng lên lời cầu xin với lòng khiêm tốn sâu thẳm nhất. Đức Maria tự coi mình không xứng đáng với địa vị nuôi dưỡng, đối thoại như một hiền mẫu với Thiên Chúa nhập thể mà nhiệm vụ đó cho dù các thiên thần Seraphim cao cấp nhất cũng không đủ khả năng. Đức Hiền Mẫu khôn ngoan suy nghĩ cân nhắc vấn đề này cách thận trọng và khiêm nhượng. Vì Đức Maria hạ mình xuống tới bụi đất, nhìn nhận sự hư vô của mình trước thánh nhan Thiên Chúa Toàn Năng, Thiên Chúa đã nâng Người lên, tái xác nhận trên Người tước vị MẸ THIÊN CHÚA. Thiên Chúa truyền cho Đức Maria thi hành địa vị và chức vụ MẸ ĐÍCH THỰC VÀ HỢP PHÁP của CHÍNH CHÚA. Đức Maria sẽ phải đối xử với Ngôi Lời Nhập Thể là CON Thiên Chúa Cha hằng hữu, đồng thời là CON của lòng dạ Người. Đức Trinh Mẫu Maria ở trong tình trạng ngây ngất thị kiến hạnh phúc này hơn một tiếng đồng hồ trước khi sinh hạ Thiên Chúa làm người. Khi ra khỏi thị kiến, phục hồi việc sử dụng giác quan, Đức Maria cảm thấy và nhìn thấy thân xác Thiên Nhi bắt đầu chuyển động trong dạ trinh khiết của Người để rời khỏi nơi Chúa đã cư ngụ chín tháng. Lúc này Hài Nhi Thiên Chúa chuẩn bị để ra khỏi Phòng Cưới Thánh. Việc chuyển động này chẳng những không gây ra một chút đau đớn hoặc khó chịu nào như nơi các con gái khác của Adong Evà khi sinh con, nhưng làm cho Đức Maria chìm ngụp trong niềm vui hoan hỉ khôn sánh, tạo ra trong linh hồn thân xác cực trinh khiết Mẹ những hiệu lực siêu nhiên lạ lùng vượt quá mọi tư tưởng loài người. Thân xác Đức Trinh Mẫu Maria trở nên hết sức tuyệt vời với vẻ đẹp thiên đàng đến mức dường như Mẹ không còn là người ta, không còn là thụ tạo ở trần thế nữa. Mặt Đức Maria tỏa hào quang tựa mặt trời, sắc da phơn phớt hồng, chiếu sáng trong vẻ trang trọng uy nghi khôn tả, mọi thứ đều bừng bừng lửa yêu mến nồng nàn. Đức Maria quì trong máng cỏ, mắt nhìn lên trời, hai tay chắp trước ngực, linh hồn đắm chìm trong Thiên Chúa và chính Người được hoàn toàn thần hoá. Trong tư thế này, lúc nửa đêm, vào cuối thị kiến của Đức Maria, Mặt Trời Công Chính đã giáng sinh rực rỡ xinh đẹp tuyệt vời, Đấng là Con Một Thiên Chúa Cha hằng hữu và Con Đức Maria vô nhiễm nguyên tội cực trinh khiết. Đức Maria được bảo toàn nguyên vẹn tinh tuyền trong trắng, được làm cho giống Thiên Chúa hơn và thánh đến muôn đời; vì Chúa Giêsu đã không chia cắt, nhưng thấm qua cung lòng trinh khiết Đức Maria như những tia sáng mặt trời thấu qua pha lê tinh tuyền làm cho nó trở nên rực rỡ toàn diện. Chúa Hài Đồng đã ra khỏi lòng Mẹ Maria mà không bị cản trở bởi bất cứ thứ gì về thể xác và vật chất. Chúa tiến ra vinh quang sáng ngời. Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng đã ấn định rằng sự vinh quang linh hồn cực châu báu Chúa trong ngày Chúa giáng sinh sẽ thông cho thân xác cực thánh Chúa những vinh quang cùng cách như xảy ra về sau trong ngày Chúa hiển dung trước mặt ba Tông Đồ trên núi Tabor (Mt 17:2). Phép lạ này không cần thiết để thấu qua lòng Mẹ Maria và giữ cho sự trinh khiết của Mẹ nguyên vẹn không bị suy suyển; vì nếu không có phép lạ Biến Hình này, Thiên Chúa cũng đã làm cho việc này xảy ra bằng những phép lạ khác. Chính thánh ý Chúa muốn Đức Trinh Mẫu nhìn xuống thân xác Con của Người, Thiên Chúa làm người, lần đầu tiên trong trạng thái được vinh quang vì hai lý do. Một là để qua thị kiến này Đức Hiền Mẫu nhận thức được lòng tôn kính cao cả nhất đối với sự Uy Nghi của Đấng mà Người phải đối xử là Con của mình, đích thực là Thiên Chúa làm người. Mặc dầu Đức Maria đã được cho biết về hai bản tính của Chúa Cứu Thế, Chúa định rằng do việc hiển lộ mà mắt thấy rõ ràng, Đức Trinh Mẫu được ban tràn đầy ân sủng xứng hợp với sự cao cả của Con cực thánh. Lý do thứ hai là để qua sự lạ lùng này thưởng công lòng trung tín thánh thiện của Mẹ Thiên Chúa. Cặp mắt trinh trắng của Mẹ, đã vì tình yêu đối với Con cực thánh mà tránh xa mọi thứ ở trần thế, phải được nhìn thấy Chúa ngay khi Giáng Sinh trong vinh quang này, để do đó được vui mừng, được thưởng công vì tình yêu thương tuyệt vời và trung thành. Thánh sử Luca kể rằng Đức Trinh Mẫu, sau khi sinh Con Đầu Lòng, đã bọc Con cực thánh trong khăn và đặt trong máng cỏ. Hai Tổng Lãnh Thiên Thần Michael và Gabriel là phụ tá cho Đức Trinh Mẫu trong dịp này. Khi Ngôi Lời Nhập Thể, do quyền năng Thiên Chúa của mình, thấu qua lòng dạ trinh khiết của Đức Hiền Mẫu đã đến trong ánh sáng, hai Tổng Lãnh Thiên Thần đón rước Chúa trong tay các ngài với lòng tôn kính cao cả. Cùng một thể thức khi linh mục dâng Bánh Thánh lên để mọi người thờ lạy, hai Tổng Lãnh Thiên Thần đã dâng Thiên Chúa Con vinh hiển sáng chói lên Đức Hiền Mẫu Maria rất thánh. Toàn thể việc này xảy ra trong khoảng thời gian ngắn. Khi hai Tổng Lãnh Thiên Thần dâng Chúa Hài Đồng cho Đức Hiền Mẫu Maria, hai Mẹ Con nhìn nhau. Trong cái nhìn này, Đức Trinh Mẫu yêu mến Hài Nhi hiền dịu này đến chết được, đồng thời được nâng cao phẩm giá, biến dạng trong Chúa Hài Đồng. Từ tay các Tổng Lãnh Thiên Thần, Chúa các tầng trời nói với Đức Hiền Mẫu rất thánh: “Hỡi Mẹ, hãy nên giống Con, vì từ nay trở đi, do thân xác nhân loại Mẹ đã cho Con, Con sẽ cho Mẹ sự hiện hữu trong ân sủng đáng ca tụng hơn nữa, đồng hoá sự hiện hữu của Mẹ vốn chỉ là một thụ tạo nên giống sự hiện hữu của Con, Đấng là Thiên Chúa và là người ta.” Đức Hiền Mẫu cực khôn ngoan đáp lời: “Lạy Chúa, xin hãy nâng tôi dậy, hãy nâng tôi lên, tôi sẽ chạy theo Ngài vì mùi dầu thơm Ngài xức” (Dc 1:3). Cùng thể thức đó nhiều mầu nhiệm bí ẩn trong các Diệu Ca đã được hoàn tất. Những lời Đức Hiền Mẫu Maria nghe từ miệng Con chí thánh cho Mẹ hiểu các hành động bên trong của linh hồn cực thánh Chúa Cứu Thế kết hợp với Thiên Tính, để do việc bắt chước các hành động đó Mẹ có thể nên giống Chúa. Đây là một trong những đặc ân cao cả nhất mà Đức Hiền Mẫu hạnh phúc cực kỳ trung tín nhận được từ Con cực thánh, Đấng là Thiên Chúa thực và người thực. Đặc ân này không những chỉ liên tiếp từ ngày đó cho tới hết cuộc đời Đức Trinh Mẫu, mà chính đặc ân đó cung cấp cho Mẹ phương tiện rập khuôn cuộc sống thiên tính của Ngôi Lời Nhập Thể cách trung tín có thể được đối với một thụ tạo. Cùng lúc đó Đức Maria thấy và cảm được sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, Người nghe tiếng Thiên Chúa Cha hằng hữu phán: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, nơi Con, Ta rất hài lòng và hoan hỉ” (Mt 17:5). Đức Maria, đã được làm cho hoàn toàn giống Thiên Chúa, được đầy tràn hết sức nhiều bí tích, đáp lời: “Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu, là Thiên Chúa cao cả, là Chúa và là Đấng tạo thành vũ trụ, xin cho con lại được phép và chúc lành của Chúa để tiếp nhận trong cánh tay con Đấng muôn dân ước ao trông chờ (Agg. 2:8); xin dạy con chu toàn thánh ý Chúa trong tư cách một người mẹ bất xứng và nô lệ hèn hạ của Chúa.” Đức Hiền Mẫu nghe tiếng Thiên Chúa Cha: “Hãy nhận lấy Con Một Yêu Quí của Người, hãy nuôi dưỡng và bắt chước Chúa Con. Hãy nhớ Người phải hiến dâng Chúa Con khi nào Ta đòi hỏi việc đó ở Người.” Đức Hiền Mẫu thiên đàng đáp: “Xin Chúa hãy đoái nhìn thụ tạo của tay Chúa, xin trang điểm con bằng ân sủng Chúa để Con của Chúa và là Thiên Chúa của con nhận con là nô lệ; nếu Chúa giúp con bằng Quyền Năng Vô Biên, con sẽ trung thành phụng sự Con Chúa; xin Chúa đừng kể đến lòng tự phụ nơi thụ tạo hèn hạ này, vì nàng ẵm trong cánh tay, nuôi Chúa và Đấng Tạo Hóa bằng sữa của mình.” Sau những lời trao đổi hết sức mầu nhiệm này, Chúa Hài Đồng ngưng phép lạ hiển dung. Chúa khởi sự một phép lạ khác là ngưng các hiệu lực vinh hiển trong thân xác cực châu báu, chỉ để các hiệu lực vinh hiển trong linh hồn và mặc lấy vẻ bề ngoài của một người có thể chịu đau khổ. Lúc này Đức Hiền Mẫu Maria nhìn Chúa Con dưới hình hài con người bình thường. Vẫn còn khiêm tốn thẳm sâu tôn kính quì thờ lạy Chúa, Đức Maria đón ẵm Chúa Hài Đồng từ tay hai Tổng Lãnh thiên thần. Khi ẵm Chúa trong tay, Đức Hiền Mẫu rất thánh nói với Chúa: “Tình Yêu ngọt ngào nhất của mẹ, Ánh Sáng mắt mẹ, Linh Hồn mẹ, Con đã đến thế gian này sớm giờ, như Mặt Trời Công Chính (Malaki 4:2), để xua đuổi bóng tối tội lỗi và sự chết! Lạy Thiên Chúa thực của các thần thánh, xin cứu các tôi tớ Chúa, cho muôn dân được nhìn thấy Chúa, Đấng đến cứu độ muôn dân (Is. 9:2). Xin Chúa nhận mẹ làm nữ tì của Chúa, làm nô lệ của Chúa, xin bù đắp sự thiếu thốn của mẹ, để mẹ có thể xứng đáng phụng sự Chúa. Con của mẹ, xin làm cho mẹ trở nên như Con muốn trong việc phụng sự Con.” Kế đó, Đức Hiền Mẫu ngước nhìn và dâng lên Thiên Chúa Cha: “Lạy Đấng Tạo Hóa cả vũ trụ đáng chúc tụng, đây là Bàn Thờ và Lễ Vật đáng chấp nhận trong mắt Chúa (Malaki 3:4). Từ giờ phút này trở đi, lạy Chúa, xin đoái nhìn nhân loại với lòng thương xót; vì chúng con đã đáng chịu cơn thịnh nộ của Chúa, bây giờ là lúc Chúa được làm cho khuây khỏa trong Con của Chúa và của con. Xin Chúa ngưng phép công thẳng, xin để cho lòng thương xót Chúa được tôn vinh; vì Ngôi Lời đã mặc lấy thân xác kẻ tội lỗi (Rom 8:3), trở nên Anh Em của loài người và những kẻ tội lỗi (Philip 2:7). Với tước vị này, con nhìn nhận tất cả những người đó là anh em, con cầu xin cho họ từ đáy linh hồn con. Lạy Chúa, mặc dầu con không xứng đáng, Chúa đã làm cho con nên mẹ của Con Một Chúa, địa vị này vượt trên mọi xứng đáng của một thụ tạo. Nhưng con cũng mắc nợ một phần đối với nhân loại vì cơ hội hạnh phúc tốt lành khôn sánh này; chính vì họ mà con là mẹ của Ngôi Lời làm người, Đấng là Chúa cứu chuộc cả loài người. Con sẽ không từ chối họ tình yêu của con; con sẽ ân cần lo lắng cho việc cứu chuộc họ. Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin Chúa nhận những ước nguyện và lời con cầu xin theo sự hài lòng và thánh ý Chúa.” Đức Hiền Mẫu hay thương xót cũng nói với các thiên thần và mọi người trần thế: “Xin cho những người đau khổ được an ủi, người phiền muộn được vui mừng, người gục ngã chỗi dậy, những người bứt rứt lo âu được yên nghỉ. Xin cho các người công chính và các thánh vui mừng hoan hỉ; các thiên thần trên trời vui mừng; các thánh Tiên tri các thánh Tổ nơi lâm bô đón lấy niềm hy vọng mới; muôn thế hệ phải chúc tụng tôn vinh Chúa, Đấng canh tân mọi kỳ công của mình. Hỡi những người nghèo khó hãy đến; đến gần đây hỡi những người bé nhỏ, đừng sợ hãi chi cả, vì trong tay tôi, tôi bồng ẵm Sư Tử được làm cho trở nên Con Chiên, Đấng Toàn Năng trở nên yếu đuối, Đấng Vô Địch đã bị chinh phục. Mọi người hãy đến rút lấy sự sống, mau mắn đạt lấy Ơn Cứu Độ, đến để được an nghỉ đời đời, vì tôi có sẵn mọi thứ này cho tất cả mọi người, được ban cho mọi người cách 'nhưng không' và truyền thông với mọi người mà không đố kỵ. Đừng chậm chạp hững hờ, hỡi con cái loài người.” Kế đó, Đức Trinh Mẫu nói với Chúa Hài Đồng: “Lạy Chúa, niềm vui ngọt ngào nhất linh hồn mẹ, xin cho mẹ được phép nhận từ Chúa nụ hôn mọi thụ tạo ước ao.” Với lời đó Đức Hiền Mẫu áp làn môi cực trinh khiết để nhận nụ hôn của Chúa Hài Đồng, mà về phần Chúa, vì là Con đích thực của Mẹ Maria, đã ao ước được Đức Hiền Mẫu rất thánh hôn. Ẵm Chúa Hài Đồng trong tay, Mẹ Maria phụng sự như bàn thờ và thánh điện, nơi muôn ngàn thiên thần dưới hình người ta thờ lạy Đấng Tạo Thành nhập thể làm người. Thiên Chúa Ba Ngôi tham dự cách đặc biệt việc Ngôi Lời Giáng Sinh, thiên đàng hầu như không còn một ai, vì cả triều đình thiên đàng đã đến hang đá đáng chúc tụng của thành Bethlehem để thờ lạy Đấng tạo thành trời đất mặc lấy hình thể phàm nhân (Philip 2:7). Trong hợp tấu chúc tụng, các thiên thần hát ca khúc mới: “Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Trong hoà âm dịu dàng vang dội, các thiên thần lặp lại ca khúc đó và sững sờ kinh ngạc trước những phép lạ mới được hoàn thành, vì sự khôn ngoan, vẻ kiều diễm, khiêm nhượng, sắc đẹp tuyệt vời khôn tả của Xuân Nữ mười lăm tuổi, Người đã trở nên Người Thụ Thác và Quản Lý những bí tích bao la cao cả như thế. Bây giờ đã đến lúc gọi thánh Giuse, vị phu quân trung tín. Thánh Giuse hết sức xứng đáng được nhìn thấy trước mọi người khác, với mọi cảm quan thân xác, ngài được hiện diện và tham dự, thờ lạy tôn kính Ngôi Lời mặc thân xác loài người; vì ngài, duy nhất trong muôn người, đã được tuyển chọn làm người trung thành bảo vệ bí tích vĩ đại này. Do sự ước ao của Đức Hiền Mẫu Maria, thánh Giuse ra khỏi cơn ngất trí (xuất thần). Khi hồi tỉnh, mắt ngài nhìn thấy trước tiên là Chúa Hài Đồng trong tay Đức Trinh Mẫu, đang nằm áp vào mặt và tựa vào ngực thánh Mẹ. Thánh Giuse thờ lạy Chúa Hài Đồng với lòng khiêm tốn nhất, mắt đẫm hoan lệ. Thánh Giuse hôn chân Chúa Hài Đồng với niềm vui mừng kính trọng sâu thẳm, đến mức chắc là ngài đã chết hoặc mất đi hoàn toàn việc sử dụng các giác quan nếu quyền năng Thiên Chúa không bảo vệ. Khi thánh Giuse thờ lạy Chúa Hài Đồng, Mẹ Maria xin phép Con Cực Thánh để đứng lên. Sau khi đã bọc Chúa Hài Đồng trong khăn, Đức Hiền Mẫu rất thánh đặt Chúa trong máng cỏ, như thánh Luca kể lại (Lc 2:7). Do thánh ý Chúa, một con bò đực từ cánh đồng lân cận vội vàng chạy vào trong hang. Mẹ Maria ra lệnh cho con bò này và con lừa đã đỡ chân Mẹ từ Nazareth tới đây, bằng cử chỉ tỏ lòng tôn kính thích hợp có thể được, nhận biết và thờ lạy Đấng tạo dựng chúng. Hai con vật khiêm tốn, vâng lệnh Đức Nữ Vương, quì phục thở hơi sưởi ấm Chúa Hài Đồng, dâng lên Chúa việc phụng thờ mà loài người từ chối. Như thế Thiên Chúa Làm Người được đặt nằm giữa hai con vật, bọc trong khăn và hoàn tất cách kỳ lạ lời tiên tri: “con bò biết chủ của nó, con lừa biết máng cỏ của chủ nó; nhưng dân Israel không nhận biết Ta, dân Ta không hiểu” (Is. 13). LỜI MẸ MARIA Con của Mẹ, nếu loài người giữ trái tim thanh thản và suy nghĩ cách ngay thẳng chính đáng về lòng nhân từ của Đấng Tối Cao đối với họ, thì điều này là phương tiện hữu hiệu mạnh mẽ hướng dẫn người ta trong cuộc sống, khiến họ qui phục tình yêu của Đấng tạo dựng và cứu độ họ. Nếu người ta dùng khả năng suy nghĩ và sự tự do mà tôn kính đối xử thích đáng với nhiệm tích vĩ đại này, hỏi ai có thể quá sức cứng cỏi không cảm động mềm lòng khi thấy Thiên Chúa của họ trở nên người trần gian, bị sỉ nhục trong sự nghèo hèn, bị khinh miệt, ẩn dật vô danh, sinh xuống trần gian trong hang bò lừa, nằm trong máng cỏ, được những thú vật vây quanh, chỉ được bảo vệ bởi một bà mẹ nghèo nàn, bị loài người kiêu căng điên khùng xua đuổi? Ai dám yêu những thứ phù du và kiêu căng, điều bị Chúa Tể Tạo Thành trời đất khinh ghét và kết án? Không ai dám khinh chê sự khiêm nhượng nghèo hèn cần cù mà Thiên Chúa yêu thích đã tự chọn cho Mình làm chính phương tiện giảng dạy đường tới phần rỗi đời đời. Một số người bỏ không suy nghĩ về chân lý và gương sáng này, mà vì bội bạc khốn nạn, chỉ có ít người gặt hái được hoa trái của những huyền nhiệm cao siêu này. Nếu sự hạ cố của Con cực thánh Mẹ quá sức vĩ đại khi Chúa rộng lượng ban cho con ơn soi sáng và hiểu biết liên quan đến những hồng ân bao la này, con hãy suy xét cẩn thận: con có bổn phận phải cộng tác với ơn soi sáng này thế nào. Để con có thể đáp ứng đòi hỏi này, Mẹ nhắc và khuyến khích con quên đi mọi thứ thuộc về thế gian, gạt chúng ra khỏi ánh mắt; không tìm kiếm thứ gì, không dính líu đến một thứ gì ngoài những thứ có thể giúp rút con ra, tách con khỏi thế gian và những kẻ ở trong đó. Để với trái tim không vương mắc một chút lưu luyến trần tục, con tôn vinh các mầu nhiệm đức khó nghèo khiêm tốn và yêu thương của Ngôi Lời Nhập Thể. Con hãy học ở Mẹ lòng tôn thờ kính úy mà theo đó con phải cư xử với Chúa. Con hãy nhớ Mẹ đã hành động thế nào khi bồng ẵm Chúa. Hãy theo gương Mẹ bất cứ khi nào con rước vào lòng con Chúa trong Phép Thánh Thể đáng tôn thờ, mà trong Phép Thánh Thể cũng chính là Thiên Chúa làm người, Đấng đã do lòng Mẹ sinh ra. Trong Phép Thánh Thể, con rước Chúa và chiếm hữu Chúa cách đích thực, Chúa ở lại trong con đích thực, như Mẹ đã chiếm hữu Chúa và nói chuyện với Chúa, mặc dầu theo cách khác. Mẹ ước ao con đạt tới cực điểm trong việc tôn thờ kính úy này. Mẹ ước ao con chú ý và tin rằng khi Chúa trong Phép Thánh Thể ngự vào lòng con, Thiên Chúa khuyến khích con cũng bằng những lời Chúa nói với Mẹ mà con đã ghi: “Hãy nên giống như Cha”. Việc Chúa từ trời xuống thế, sinh ra, sống và chết khiêm tốn khó nghèo, là gương sáng đặc biệt hiếm có về bỉ ổi trần thế và những lừa dối của nó. Tất cả những thứ này phải là những tiếng nói sống động con phải nghe theo, phải ghi khắc trong tim. Tất cả những đặc ân này được ban cho con để con khôn ngoan tận dụng các ơn thông thường, để con hiểu phải biết ơn chừng nào đối với Con cực thánh và Chúa của Mẹ. Con phải tận lực cố gắng đáp lại lòng nhân lành Chúa, chẳng khác gì Chúa từ thiên đàng xuống trần gian chỉ để cứu chuộc một mình con, và chẳng khác gì Chúa lập ra các Bí Tích lạ lùng và giáo lý trong Giáo Hội không phải cho ai khác mà chỉ cho một mình con (Galata 7:12). |